![]() |
| Các sản phẩm đèn được làm từ giấy dó truyền thống. Ảnh: Nhân vật cung cấp |
Khi ánh sáng bắt đầu từ một tờ giấy
Cơ duyên đến với nghề của anh Phạm Xuân Ngọc bắt đầu từ năm 2022, khi anh có cơ hội được tiếp xúc với giấy dó làng Yên Thái. Nơi đây là một trong những cái nôi của nghề làm giấy truyền thống Việt Nam. Đặc biệt là khi gặp gỡ họa sĩ Vũ Thái Bình, người đã có hơn 30 mươi năm gắn bó với chất liệu này.
Từ những ngày đầu học nghề, anh Ngọc được truyền cảm hứng không chỉ về kỹ thuật mà còn về tinh thần của một chất liệu mang trong mình hồn cốt dân tộc. “Thầy Bình là người đã cho tôi thấy vẻ đẹp tâm linh của giấy dó, nơi ánh sáng đi qua cũng có hồn, vừa mộc mạc, vừa sâu lắng” - anh Ngọc chia sẻ. Chính từ những tấm giấy tưởng như bình thường ấy, anh đã nhìn thấy tiềm năng để tạo nên một loại đèn thủ công đặc biệt, vừa gần gũi vừa mang giá trị nghệ thuật.
Với anh, lựa chọn giấy dó không chỉ là chọn một chất liệu khác biệt mà là chọn một cách tiếp cận văn hóa bởi giấy dó tượng trưng cho sự bền bỉ, tinh tế và giản dị của người Việt. Giấy dó được làm hoàn toàn thủ công từ vỏ cây dó, có độ dai, nhẹ và khả năng xuyên sáng hiếm có. Khi ánh sáng đi qua, tấm giấy tỏa ra sắc vàng ấm áp, dịu dàng và rất thật, khác hẳn với thứ ánh sáng lạnh của những chiếc đèn công nghiệp vô tri.
Trong quá trình sáng tạo, anh Ngọc kết hợp cùng nghệ nhân Nguyễn Duy Hưng - người nhiều năm gắn bó với nghề mây tre đan để tạo nên những chiếc đèn có khung bằng tre. Tre luôn được xử lý chống mối mọt rồi uốn cong nhẹ nhàng, vừa vững chắc vừa thanh thoát.
Trên khung ấy, từng tấm giấy dó được bồi, căng và dán thủ công bằng tay. Với mỗi tác phẩm, công đoạn này đòi hỏi sự tỉ mỉ và chính xác đến từng chi tiết, bởi chỉ cần sơ suất nhỏ giấy có thể nhăn hoặc rách. Anh gọi đó là “khoảnh khắc thở cùng chất liệu”, khi bàn tay người thợ phải vừa khéo, vừa biết lắng nghe độ ẩm và sức căng của giấy.
“Giấy dó tuy dai nhưng rất nhạy cảm với môi trường, nên chỉ cần lệch đi một chút là toàn bộ công sức có thể hỏng. Nhưng cũng chính sự khó tính ấy khiến tôi càng yêu nó hơn” - anh Ngọc tâm sự.
Điều đặc biệt làm nên linh hồn của đèn giấy dó là những bức tranh trang trí do họa sĩ Vũ Thái Bình trực tiếp vẽ tay trên nền giấy bằng màu nước. Những hình ảnh hoa sen, cảnh quê hương, cánh đồng, con trâu, mái đình... hiện lên mộc mạc mà tinh tế, tạo nên bản giao hòa giữa nghệ thuật dân gian và hơi thở đương đại. Khi ánh sáng xuyên qua lớp giấy, những nét vẽ ấy trở nên sống động như kể lại câu chuyện văn hóa Việt bằng thứ ngôn ngữ của ánh sáng và cảm xúc. Anh Ngọc nói rằng mỗi lần nhìn chiếc đèn hoàn thiện, anh lại thấy một thứ ánh sáng rất riêng ấm, dịu và có hồn - thứ ánh sáng mà anh tin chỉ có thể tìm thấy trong những điều mang hơi thở Việt.
![]() |
|
|
![]() |
Các sản phẩm đèn được làm từ giấy dó truyền thống. Ảnh: Nhân vật cung cấp |
![]() |
| Khách quốc tế thích thú khi được trải nghiệm làm đèn giấy dó. Ảnh: Nhân vật cung cấp |
Lan tỏa sản phẩm thủ công Việt
Không dừng lại ở việc chế tác, Phạm Xuân Ngọc coi mỗi chiếc đèn giấy dó là một câu chuyện để kể. Anh muốn đưa nghề thủ công này ra khỏi phạm vi của làng nghề, đến gần hơn với người trẻ để họ không chỉ ngắm nhìn mà còn được chạm tay, được hiểu, được yêu.
Anh tổ chức các buổi workshop trải nghiệm làm đèn giấy dó, nơi người tham gia được tự tay vẽ, căng giấy, dán khung và cảm nhận từng bước tạo nên một sản phẩm thủ công hoàn chỉnh. “Tôi muốn người trẻ chạm vào giấy dó, cảm nhận mùi tre, sợi xơ, để hiểu rằng văn hóa Việt không ở đâu xa, nó ở ngay trong đôi tay mình” - anh Ngọc nói.
Dù không thể cạnh tranh về giá với các sản phẩm đèn công nghiệp, đèn giấy dó vẫn giữ vị thế riêng nhờ giá trị thẩm mỹ và cảm xúc mà nó mang lại. Mỗi chiếc đèn là một bản độc bản, không có cái thứ hai bởi mỗi nét vẽ, mỗi đường giấy đều mang dấu ấn cá nhân và tâm hồn của người thợ.
Anh Ngọc cũng đang ấp ủ kế hoạch đưa sản phẩm thủ công này ra quốc tế như một cách kể câu chuyện về người Việt qua ánh sáng dịu dàng và tinh tế của giấy dó. Anh mong rằng khi ai đó ở xa bật một chiếc đèn giấy dó, họ sẽ cảm nhận được hơi ấm của đất nước Việt Nam. Ánh sáng ấy trở thành nhịp cầu nối giữa quá khứ và hiện tại, giữa truyền thống và hiện đại, giữa bàn tay người Việt và trái tim của những người yêu cái đẹp.